Thuận Hải đã đặt ra mục tiêu quan trọng trong việc phát triển các dự án năng lượng sạch và bền vững, giúp giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu. Chúng tôi luôn tuân thủ các tiêu chuẩn cao cấp về an toàn và bảo vệ môi trường trong quá trình hoạt động sản xuất, đồng thời thực hiện các biện pháp để giảm thiểu tác động đến cộng đồng và môi trường.
Tổng quan về Ngân hàng Chính sách xã hội:
Ngày 31 tháng 8 năm 1995, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam ra Quyết định số 525-TTg về việc thành lập Ngân hàng Phục vụ Người nghèo để giúp người nghèo vay vốn phát triển sản xuất, giải quyết đời sống góp phần thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo, không vì mục đích lợi nhuận, thực hiện bảo tồn vốn ban đầu, phát triển vốn, bù đắp chi phí. Khi này Ngân hàng chỉ tham gia ban hành chính sách, còn việc điều hành tác nghiệp ủy thác cho Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam đảm nhận. Sau bảy năm Ngân hàng Phục vụ người nghèo hoạt động, nhằm tách tín dụng chính sách ra khỏi hoạt động tín dụng thông thường của các ngân hàng thương mại nhà nước, ngày 4 tháng 10 năm 2002, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2002/NĐ-CP về tín dụng đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác; cũng trong ngày này, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 131/2002/QĐ-TTg thành lập Ngân hàng Chính sách xã hội để cho vay người nghèo và các đối tượng chính sách khác. Vốn điều lệ ban đầu của Ngân hàng là 5 nghìn tỷ đồng và được cấp bổ sung phù hợp với yêu cầu hoạt động từng thời kỳ.
Thời hạn hoạt động là 99 năm. Ngày 11 tháng 3 năm 2003, Ngân hàng chính thức hoạt động. Đến ngày 30 tháng 9 năm 2017, tổng nguồn vốn của Ngân hàng là hơn 179.000 tỉ đồng, gấp hơn 25 lần so với khi thành lập. Tổng dư nợ các chương trình tín dụng chính sách đạt hơn 169.000 tỷ đồng, gấp 24 lần so với khi thành lập. Hơn 6,7 triệu hộ nghèo và các đối tượng chính sách còn dư nợ. Hơn 31,8 triệu lượt hộ nghèo và đối tượng chính sách khác đã vay vốn từ Ngân hàng, nhờ đó hơn 4,5 triệu hộ vượt qua ngưỡng nghèo. Vốn ủy thác của địa phương gần 8.500 tỉ đồng.
Có thể thấy, thành lập Ngân hàng Chính sách xã hội để thực hiện chính sách tín dụng đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác trên cơ sở tổ chức lại Ngân hàng Phục vụ người nghèo được thành lập theo Quyết định số 230/QĐ-NH5, ngày 01 tháng 9 năm 1995 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Ngân hàng Chính sách xã hội có bộ máy quản lý và điều hành thống nhất trong phạm vi cả nước, là một pháp nhân, có vốn điều lệ, có con dấu, có tài sản và hệ thống giao dịch từ trung ương đến địa phương. Trụ sở chính đặt tại Thủ đô Hà Nội. Vốn Điều lệ ban đầu là 5.000.000.000.000 đồng (năm nghìn tỷ đồng) và được cấp bổ sung phù hợp với yêu cầu hoạt động từng thời kỳ. Tổ chức và hoạt động của Ngân hàng Chính sách xã hội được quy định tại Quyết định này và Điều lệ về tổ chức và hoạt động của Ngân hàng Chính sách xã hội do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Thời hạn hoạt động của Ngân hàng Chính sách xã hội là 99 năm.
Cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Chính sách xã hội:
Cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Chính sách xã hội gồm :
– Hội sở chính đặt tại Thủ đô Hà Nội;
– Chi nhánh đặt tại các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương;
– Phòng giao dịch đặt tại các huyện, quận, thành phố thuộc tỉnh. Những nơi cần thiết thì thành lập Chi nhánh Ngân hàng Chính sách xã hội cấp huyện và do Hội đồng quản trị Ngân hàng Chính sách xã hội quyết định.
Nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Hội sở chính, Chi nhánh và Phòng giao dịch do Hội đồng quản trị Ngân hàng Chính sách xã hội quy định.
Quản trị Ngân hàng Chính sách xã hội là Hội đồng quản trị. Hội đồng quản trị có 12 thành viên, gồm 09 thành viên kiêm nhiệm và 03 thành viên chuyên trách. 09 thành viên kiêm nhiệm gồm Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là Chủ tịch Hội đồng quản trị, 08 thành viên còn lại là Thứ trưởng hoặc cấp tương đương Thứ trưởng của Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, ủy ban Dân tộc, Văn phòng Chính phủ và Phó chủ tịch Hội Nông dân Việt Nam, Phó Chủ tịch Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam; 03 thành viên chuyên trách gồm: 01 ủy viên giữ chức Phó Chủ tịch thường trực, 01 Uỷ viên giữ chức Tổng giám đốc, 01 ủy viên giữ chức Trưởng Ban Kiểm soát.
Điều hành hoạt động Ngân hàng Chính sách xã hội là Tổng giám đốc. Tổng giám đốc là đại diện pháp nhân của Ngân hàng Chính sách xã hội. Giúp việc Tổng giám đốc có một số Phó Tổng giám đốc. Chủ tịch Hội đồng quản trị ký bổ nhiệm, miễn nhiệm các Phó Tổng giám đốc. Nhiệm vụ, quyền hạn của Tổng giám đốc thực hiện theo Điều lệ về tổ chức và hoạt động của Ngân hàng Chính sách xã hội.
Chức năng, nhiệm vụ của Ngân hàng Chính sách xã hội:
– Ngân hàng Chính sách xã hội được thành lập để thực hiện chính sách tín dụng ưu đãi đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác.
– Hoạt động của Ngân hàng Chính sách xã hội không vì mục đích lợi nhuận, được Nhà nước bảo đảm khả năng thanh toán, tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng 0% (không phần trăm), không phải tham gia bảo hiểm tiền gửi, được miễn thuế và các khoản phải nộp ngân sách Nhà nước.
– Ngân hàng Chính sách xã hội được thực hiện các nghiệp vụ: huy động vốn, cho vay, thanh toán, ngân quỹ và được nhận vốn uỷ thác cho vay ưu đãi của chính quyền địa phương, các tổ chức kinh tế, chính trị – xã hội, các hiệp hội, các hội, các tổ chức phi Chính phủ, các cá nhân trong và ngoài nước đầu tư cho các chương trình dự án phát triển kinh tế xã hội.
– Ngân hàng Chính sách xã hội là một trong những công cụ đòn bẩy kinh tế của Nhà nước nhằm giúp hộ nghèo, hộ cận nghèo và đối tượng chính sách có điều kiện tiếp cận vốn tín dụng ưu đãi để phát triển sản xuất, tạo việc làm, nâng cao thu nhập, cải thiện điều kiện sống, vươn lên thoát nghèo, góp phần thực hiện chính sách phát triển kinh tế gắn liền với xóa đói, giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Các văn bản pháp luật có liên quan đến bài viết:
– Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010;
– Quyết định 131/2002/QĐ-TTg ngày 4 tháng 10 năm 2002 của Thủ tướng Chính phủ.
Bài 1: Xây dựng văn hóa báo chí trước yêu cầu của thời đại
Tính đến tháng 12/2022, cả nước có 127 cơ quan báo; 670 cơ quan tạp chí; 72 cơ quan đài phát thanh, truyền hình; có khoảng 41.000 người đang hoạt động trong lĩnh vực báo chí, 19.356 trường hợp được cấp thẻ nhà báo. Các số liệu nêu trên cho thấy sự phát triển mạnh mẽ của báo chí cách mạng Việt Nam trong bối cảnh hiện nay, nhất là số lượng các cơ quan báo chí và người làm báo tăng lên nhiều so với những năm đầu đổi mới.
Cùng với đó, chất lượng các ấn phẩm báo chí được chú trọng, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu tiếp nhận thông tin đa dạng, phong phú của công chúng. Đặc biệt trong bối cảnh mạng xã hội phát triển như vũ bão, các cơ quan báo chí đã nỗ lực đổi mới, thích ứng kịp thời với xu thế của thời đại. Có thể khẳng định, trải qua chặng đường hơn 70 năm hình thành và phát triển, báo chí cách mạng Việt Nam luôn là lực lượng nòng cốt, giữ vai trò quan trọng trên mặt trận tư tưởng-văn hóa, trưởng thành vững mạnh về mọi mặt, luôn phát huy vai trò tiên phong và tinh thần trách nhiệm, có những đóng góp to lớn vào sự nghiệp cách mạng của Đảng.
Phát biểu tại Đại hội đại biểu toàn quốc Hội Nhà báo Việt Nam lần thứ XI diễn ra vào ngày 31/12/2021, Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng - khi đó là Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư, ghi nhận: “Đảng, Nhà nước và nhân dân ta vui mừng trước sự trưởng thành, vững vàng của đội ngũ báo chí cả nước, ngày thêm nâng cao về năng lực, phẩm chất chính trị, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ; đã và đang nỗ lực từng bước làm chủ công nghệ làm báo hiện đại, không ngừng đổi mới, sáng tạo. Nội dung thông tin trên báo chí ngày càng toàn diện, đa dạng, phong phú; chất lượng chính trị, giá trị văn hóa trong các tác phẩm báo chí không ngừng được nâng cao...”.
Đảng, Nhà nước và nhân dân ta vui mừng trước sự trưởng thành, vững vàng của đội ngũ báo chí cả nước, ngày thêm nâng cao về năng lực, phẩm chất chính trị, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ; đã và đang nỗ lực từng bước làm chủ công nghệ làm báo hiện đại, không ngừng đổi mới, sáng tạo. Nội dung thông tin trên báo chí ngày càng toàn diện, đa dạng, phong phú; chất lượng chính trị, giá trị văn hóa trong các tác phẩm báo chí không ngừng được nâng cao...
Tuy nhiên đồng chí cũng thẳng thắn chỉ rõ những hạn chế, khuyết điểm, của một số cơ quan báo chí và người làm báo đó là: “chạy theo thị hiếu tầm thường, lợi ích cá nhân, sa đà vào thông tin mặt trái của xã hội, thiếu tính nhân văn, phản giáo dục, thậm chí làm sai lệch bản chất sự việc. Công tác quản lý báo chí chưa theo kịp thực tiễn, chưa đáp ứng sự phát triển của báo chí. Số lượng cơ quan báo chí tăng nhanh; nhiều cơ quan chủ quản buông lỏng quản lý, phó mặc cơ quan báo chí; tôn chỉ mục đích bị xem nhẹ...”.
Thời gian qua, những người làm báo chân chính không khỏi phiền lòng trước những hiện tượng tiêu cực như tình trạng sách nhiễu doanh nghiệp, không thật sự tôn trọng, lắng nghe người dân trong quá trình tác nghiệp, tình trạng “nhà báo hai mặt”, “nhà báo đếm tầng”,… ngày càng trở nên nổi cộm. Đã có những cơ quan báo chí và một số phóng viên bị xử lý theo quy định của pháp luật.
Dù muốn hay không điều này đã phần nào làm ảnh hưởng đến vai trò, sức mạnh của báo chí, làm suy giảm niềm tin của xã hội đối với những người làm báo; từ đây đòi hỏi các cơ quan báo chí, người làm báo cần dũng cảm nhìn thẳng vào sự thật để có biện pháp chấn chỉnh, sửa đổi, thực hiện tốt hơn vai trò, nhiệm vụ được Đảng, Nhà nước và nhân dân tin tưởng giao phó, trong đó vấn đề xây dựng văn hóa báo chí là yêu cầu có tính cấp bách.
Trong giai đoạn hiện nay, tình hình các nước trong khu vực và trên thế giới có nhiều diễn biến phức tạp và khó lường, xu thế toàn cầu hóa truyền thông đại chúng và sự phát triển mạnh mẽ của mạng xã hội, vừa là cơ hội, vừa là thách thức lớn đối với hoạt động báo chí và công tác quản lý báo chí; các thế lực thù địch, phản động vẫn liên tục chống phá Việt Nam bằng nhiều âm mưu, thủ đoạn tinh vi, thâm độc.
Do đó việc nâng cao nhận thức về văn hóa, xây dựng văn hóa trong hoạt động báo chí, xây dựng cơ quan báo chí và người làm báo văn hóa, các biểu hiện sa sút về văn hóa trong hoạt động báo chí cần kịp thời phát hiện và có biện pháp chấn chỉnh nghiêm khắc là yêu cầu cấp thiết.
Quan tâm, xây dựng văn hóa báo chí không chỉ giúp báo chí làm tốt chức năng, vai trò của mình mà còn góp phần thúc đẩy sự phát triển, tiến bộ của xã hội. Bởi lẽ mỗi tác phẩm báo chí là một sản phẩm văn hóa, có sức lan tỏa mạnh mẽ trong đời sống, tác động đến nhận thức, tâm tư tình cảm của công chúng. Mỗi người làm báo cũng chính là một chiến sĩ trên mặt trận văn hóa, đồng thời báo chí có vai trò quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa dân tộc.
Vấn đề xây dựng, nâng cao văn hóa báo chí, xây dựng đạo đức người làm báo luôn được Đảng, Nhà nước ta đặc biệt quan tâm, coi đây là một vấn đề có ý nghĩa sống còn trong hoạt động báo chí, và thường xuyên được đề cập trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật. Đáng chú ý tại Nghị quyết số 33-NQ/TW Đảng ta xác định: Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước.
Thực tiễn chứng minh giá trị của một bài báo nằm ở giá trị xã hội của nó. Chính từ những sản phẩm báo chí đề cao tính nhân văn, phụng sự lợi ích của dân tộc, của nhân dân đã giúp các giá trị văn hóa được lan tỏa, tạo động lực và cảm hứng tích cực trong cộng đồng.
Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội, từ đó yêu cầu: xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân là chủ thể sáng tạo, đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng. Đối với hoạt động báo chí, Nghị quyết yêu cầu: “Quy hoạch, sắp xếp lại hệ thống báo chí đáp ứng yêu cầu phát triển, bảo đảm thiết thực, hiệu quả.
Chú trọng công tác quản lý các loại hình thông tin trên mạng Internet để định hướng tư tưởng và thẩm mỹ cho nhân dân, nhất là cho thanh niên, thiếu niên. Đổi mới nội dung, phương thức hoạt động và cơ chế đầu tư theo hướng ưu tiên các cơ quan báo chí, truyền thông chủ lực. Các cơ quan truyền thông phải thực hiện đúng tôn chỉ, mục đích, đối tượng phục vụ chủ yếu; nâng cao tính tư tưởng, nhân văn và khoa học, góp phần xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam”, đồng thời chỉ rõ nhiệm vụ trong thời gian tới là phải “Ngăn chặn có hiệu quả tình trạng một bộ phận báo chí, xuất bản, văn hóa, văn nghệ hoạt động không đúng tôn chỉ, mục đích, sản phẩm lệch lạc, thị hiếu tầm thường”.
Nhận thức sâu sắc vai trò, chức năng, nhiệm vụ của mình, những năm qua, nhiều cơ quan báo chí đã chú trọng xây dựng văn hóa báo chí tại cơ quan, đơn vị với những tiêu chí cụ thể đó là: Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ những người làm báo có lập trường chính trị vững vàng, tinh thông nghiệp vụ, có đạo đức nghề nghiệp, dũng cảm đấu tranh với tiêu cực, bảo vệ cái đúng; tâm huyết, công tâm, khách quan trong hoạt động nghiệp vụ báo chí, bám sát mọi vấn đề của đời sống, lắng nghe phản ánh kịp thời nhu cầu, nguyện vọng của quần chúng nhân dân, chú trọng gìn giữ, bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng; củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc...
Thực tiễn chứng minh giá trị của một bài báo nằm ở giá trị xã hội của nó. Chính từ những sản phẩm báo chí đề cao tính nhân văn, phụng sự lợi ích của dân tộc, của nhân dân đã giúp các giá trị văn hóa được lan tỏa, tạo động lực và cảm hứng tích cực trong cộng đồng.
Thời gian qua, vấn đề xây dựng văn hóa báo chí đã dần tạo thành phong trào mạnh mẽ sâu rộng trong các cơ quan báo chí. Tiêu biểu có thể kể đến sự kiện ngày 21/6/2022, tại Hà Nội, Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ Thông tin và Truyền thông, Hội Nhà báo Việt Nam, Báo Nhân Dân phối hợp tổ chức lễ phát động phong trào thi đua “Xây dựng môi trường văn hóa trong các cơ quan báo chí” hướng đến kỷ niệm 100 năm Ngày Báo chí cách mạng Việt Nam.
Thực tiễn triển khai việc xây dựng văn hóa báo chí thời gian qua cho thấy phải đặc biệt chú ý đến hai vấn đề có tính cốt yếu đó là xây dựng đội ngũ những người làm báo có nhân cách, đạo đức, giỏi chuyên môn nghiệp vụ song song với xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, thân thiện và chuyên nghiệp.
Lễ phát động nhằm nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng, lãnh đạo cơ quan báo chí, người làm báo về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của văn hóa đối với sự phát triển đất nước, cũng như sự phát triển của mỗi cơ quan báo chí, giá trị của các sản phẩm báo chí và danh dự, uy tín của người làm báo; xây dựng môi trường văn hóa trong các cơ quan báo chí, trọng tâm là xây dựng cơ quan báo chí văn hóa, người làm báo văn hóa; thúc đẩy và lan tỏa sự hưởng ứng, tham gia tích cực, tạo phong trào thi đua thiết thực và ý nghĩa để các cơ quan báo chí thực hiện tốt vai trò, sứ mệnh của báo chí cách mạng trong gìn giữ, xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phấn đấu “mỗi tòa soạn là một điểm sáng văn hóa, mỗi người làm báo là một nhân cách văn hóa”.
Thực tiễn triển khai việc xây dựng văn hóa báo chí thời gian qua cho thấy phải đặc biệt chú ý đến hai vấn đề có tính cốt yếu đó là xây dựng đội ngũ những người làm báo có nhân cách, đạo đức, giỏi chuyên môn nghiệp vụ song song với xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, thân thiện và chuyên nghiệp. Để nhiệm vụ này phát huy hiệu quả trên thực tiễn cần sự thay đổi rất lớn trong tư duy, nhận thức, cách điều hành hoạt động của mỗi cơ quan báo chí, nhất là vai trò của người đứng đầu; bên cạnh đó không thể thiếu trách nhiệm của mỗi người làm báo.
Hơn lúc nào hết, tiêu chí cơ quan báo chí văn hóa và tiêu chí văn hóa của người làm báo cần được thường xuyên quán triệt, triển khai trên thực tiễn; cần nhận thức một cách sâu sắc nhiệm vụ: “Báo chí cách mạng cần khẳng định hơn nữa vai trò, vị thế của mình trong thời đại kỹ thuật số. Dòng thông tin tích cực của báo chí vẫn phải là dòng thông tin chủ lưu với thông tin chất lượng, chính xác, kịp thời, khách quan, là bộ lọc đáng tin cậy về mọi vấn đề xã hội, dư luận quan tâm”(1).
Để tạo lập thông tin lành mạnh, an toàn, các cơ quan báo chí, xuất bản truyền thông chính thống phải làm chủ được mặt trận thông tin. Trong đó, vấn đề quan trọng nhất được đặt ra là tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng với hoạt động báo chí, xuất bản; nâng cao chỉ đạo định hướng báo chí xuất bản theo phương châm chủ động, kịp thời, hiệu quả, giữ vững kỷ cương trong các vấn đề quan trọng, phức tạp, nhạy cảm.
Chỉ khi việc xây dựng văn hóa báo chí trở thành nhu cầu, động lực phát triển từ chính cơ quan báo chí, người làm báo, thể hiện bằng ý thức, thái độ, tác phong nghề nghiệp, chuẩn mực đạo đức, các sản phẩm báo chí chất lượng cao được cung cấp tới độc giả,... thì văn hóa báo chí mới thật sự tạo nền tảng vững chắc, không ngừng lan tỏa giá trị trong đời sống. Người làm báo và các cơ quan báo chí khi đó mới phát huy vai trò tiên phong trong mặt trận văn hóa, và góp phần định hướng những dòng chảy văn hóa tích cực trong đời sống xã hội.
Chỉ khi việc xây dựng văn hóa báo chí trở thành nhu cầu, động lực phát triển từ chính cơ quan báo chí, người làm báo, thể hiện bằng ý thức, thái độ, tác phong nghề nghiệp, chuẩn mực đạo đức, các sản phẩm báo chí chất lượng cao được cung cấp tới độc giả,... thì văn hóa báo chí mới thật sự tạo nền tảng vững chắc, không ngừng lan tỏa giá trị trong đời sống.
(1) Võ Văn Thưởng, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương: Truyền thông xã hội đối với ổn định chính trị, xã hội ở Việt Nam.
PHONG ĐIỆP VÀ NGUYỄN TRI THỨC/NHÂN DÂN
1. Cách mạng công nghệ thông tin, cách mạng công nghiệp 4.0 và chính sách của Nhà nước Việt Nam
Cách mạng công nghệ thông tin (CNTT), truyền thông, Internet và cách mạng công nghiệp lần thứ tư - cách mạng công nghiệp 4.0 là những nhân tố đặc biệt quan trọng, quy định sự phát triển, vận hành xã hội trong thế kỷ 21. Nhà nước, pháp luật không những tất yếu phải chịu sự tác động, áp lực, thách thức vô cùng mạnh mẽ từ các cuộc cách mạng công nghiệp, nhất là cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 mà còn phải xác định đầy đủ hơn về vai trò, trách nhiệm của mình đối với con người và xã hội trong bối cảnh mới có tính chất toàn cầu.
Đặc trưng nổi bật của cách mạng công nghiệp 4.0 là sự kết hợp công nghiệp trong các lĩnh vực vật lý, số hóa, sinh học và vốn, sự hợp nhất về mặt công nghệ, nhờ đó xóa bỏ ranh giới giữa các lĩnh vực vật lý, kỹ thuật số và sinh học, đem lại sự kết hợp giữa hệ thống ảo và thực thể. Những tiến bộ đột phá khoa học như công nghệ nano, in 3D, công nghệ sinh học phân tử, di truyền, trí tuệ nhân tạo, internet vạn vật kết nối (Internet of Things - IoT) sẽ giúp cho việc mở rộng thị trường, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đem lại muôn vàn tiện ích, lợi ích cho con người, chính phủ và doanh nghiệp. Chỉ riêng trong lĩnh vực đầu tư, công nghệ - đặc biệt là công nghệ số và Internet - là mảng đầu tư hấp dẫn và đầy tiềm năng nhất của các nhà đầu tư trong thời gian tới. Theo các nhà khoa học, cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ tạo ra những khả năng hoàn toàn mới, có tác động sâu sắc đối với các hệ thống chính trị, xã hội, kinh tế của thế giới, đến mọi quốc gia, chính phủ, doanh nghiệp và người dân khắp toàn cầu, cũng như làm thay đổi căn bản cách chúng ta sống, làm việc và sản xuất[1].
Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 cũng sẽ tác động mạnh mẽ, toàn diện đến đời sống quốc gia, con người, Nhà nước và pháp luật, đến mối quan hệ hợp tác giữa các quốc gia, các tổ chức quốc tế theo cả chiều hướng tích cực, thuận lợi và những áp lực, thách thức vô cùng to lớn.
Nhận thức được xu thế và tầm quan trọng của các cuộc cách mạng CNTT, truyền thông, cách mạng công nghiệp 4.0, Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách, pháp luật về hoạt động ứng dụng CNTT nhằm đưa Việt Nam sớm trở thành nước phát triển về CNTT. Tiêu biểu là các văn bản pháp luật như: Nghị quyết số 36a/NQ/CP ngày 14/10/2015 của Chính phủ về Chính phủ điện tử; Nghị quyết số 34/NQ-CP ngày 07/4/2017 của Chính phủ về cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, Chỉ thị số 16/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về “Tăng cường năng lực tiếp cận cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4”, Luật Chuyển giao công nghệ (sửa đổi) sẽ có hiệu lực từ ngày 1/7/2018. Chính sách của Nhà nước là Việt Nam cần chủ động có định hướng, giải pháp thiết thực để nắm bắt cơ hội, giảm thiểu các tác động tiêu cực của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, áp dụng các biện pháp về phát triển hạ tầng CNTT; cải thiện môi trường cạnh tranh kinh doanh, ưu tiên phát triển công nghiệp công nghệ số, nông nghiệp thông minh, đô thị thông minh; xây dựng, đào tạo nguồn nhân lực có khả năng tiếp nhận các xu thế công nghệ sản xuất mới. Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang tác động đến chúng ta, nó không chờ đợi chúng ta mà đang tiến lên như vũ bão, chúng ta không thể bỏ lỡ con tàu này[2].
2.Vai trò, trách nhiệm của Nhà nước trong xã hội công nghệ thông tin, truyền thông, công nghệ số
Ở bất kỳ một mô hình tổ chức xã hội nào, Nhà nước, pháp luật cũng đều có vai trò to lớn, chi phối mọi lĩnh vực đời sống xã hội. Đồng thời Nhà nước, pháp luật - như một tất yếu - cũng chịu sự tác động của hàng loạt các yếu tố. Trong xã hội CNTT, công nghệ số, truyền thông và Internet, vai trò và áp lực đặt ra là vô cùng to lớn, mạnh mẽ đối với Nhà nước, pháp luật cũng như toàn xã hội.
Xã hội CNTT, công nghệ số, ứng dụng Internet vào cuộc sống đã và đang tác động mạnh mẽ, toàn diện đến tất cả các lĩnh vực hoạt động của Nhà nước, xã hội, chính sách, pháp luật, chức năng nhà nước, phương thức quản lý, điều hành xã hội, giải quyết, ứng phó với các vấn đề xã hội; mối quan hệ giữa Nhà nước và cá nhân; dịch vụ pháp luật, ý thức pháp luật, văn hóa pháp luật, nghiên cứu, phổ biến, giáo dục, đào tạo pháp luật.
Trong xã hội CNTT, công nghệ số, Nhà nước không chỉ một chiều là ứng dụng những thành tựu của công nghệ, mà còn có vai trò, trách nhiệm to lớn trong việc xây dựng và phát triển xã hội CNTT, xã hội và nền kinh tế tri thức, kinh tế số. Vì vậy, vấn đề đặt ra là cần phải giải quyết một vấn đề then chốt, rộng lớn hơn đó là việc xác định vai trò của Nhà nước trong sự hình thành xã hội thông tin chứ không chỉ là chức năng của Nhà nước trong mối quan hệ với CNTT, truyền thông, công nghệ số. Đối với các nhà nước hiện đại, cần nhận thức và xác định nhiệm vụ xây dựng xã hội thông tin như là cơ sở của sự phát triển toàn diện về kinh tế, xã hội, chính trị, văn hóa và có chính sách quốc gia về xây dựng xã hội thông tin, áp dụng công nghệ số.
Nhà nước có trách nhiệm quan trọng trong việc hoạch định chính sách quốc gia về xây dựng kết cấu hạ tầng thông tin đầu tiên của xã hội CNTT, xã hội tri thức. Nếu không có chính sách và những quy định hợp lý, không có sự điều hành của Chính phủ đối với kết cấu hạ tầng thông tin thì xã hội thông tin, xã hội tri thức không thể hình thành được.
Nhà nước với vai trò kiến tạo và phát triển, cần phải bảo đảm và thúc đẩy để người dân được tự do, an toàn, phát huy được tiềm năng của mình trong điều kiện xã hội CNTT, cách mạng công nghiệp 4.0. Điều này đặt ra phải đổi mới cách tư duy trong xây dựng chính sách, pháp luật, cách thức quản lý, điều hành xã hội theo quan niệm truyền thống trước đây. Chính sách của Nhà nước Việt Nam là khẩn trương hoàn thiện cơ chế, thể chế, chính sách, pháp luật theo kịp kinh tế số, công nghiệp thông minh, xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ, trong đó, CNTT và hạ tầng thông tin đóng vai trò hạ tầng của hạ tầng, phát triển nhanh nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu kinh tế số, xây dựng, phát triển nguồn nhân lực làm chủ hệ tri thức Việt số hóa, chủ động nắm bắt, khai thác có hiệu quả các cơ hội to lớn của cách mạng công nghiệp 4.0 mang lại, phát triển doanh nghiệp số được xác định là nhiệm vụ trung tâm, lâu dài để phát triển kinh tế số ở Việt Nam[3].
Cách thức quản lý xã hội của Nhà nước theo đó phải được thay đổi mạnh mẽ, không chỉ là đảm bảo thượng tôn Hiến pháp, pháp luật mà còn đảm bảo những điều kiện tốt nhất, an toàn nhất cho sự vận hành của xã hội thông tin, ứng dụng công nghệ số cùng những ứng dụng tiến bộ khác của công nghệ, kỹ thuật. Các cơ quan nhà nước và đội ngũ cán bộ, viên chức, công chức cần đổi mới tư duy, phương thức quản lý, hoạt động dựa trên nền tảng công nghệ kỹ thuật cao để phục vụ hiệu quả, nhanh chóng, tiết kiệm, đơn giản hóa thủ tục hành chính đối với doanh nghiệp, bảo đảm minh bạch hóa hoạt động của các cơ quan nhà nước.
Nhà nước đồng thời vừa phải nỗ lực nghiên cứu, xây dựng chính sách, pháp luật về phát triển, sử dụng CNTT, truyền thông, xây dựng khung khổ pháp lý cho xã hội thông tin, vừa phải bảo vệ, bảo đảm sự an toàn cho các cá nhân, tổ chức và cho chính Nhà nước trong bối cảnh xã hội thông tin toàn cầu.
Phạm vi điều chỉnh, cách thức, phương pháp, mức độ điều chỉnh và cả kỹ thuật của điều chỉnh pháp luật buộc phải có nhiều thay đổi mới cho phù hợp, thích ứng tốt nhất trong bối cảnh mới của công nghệ, kỹ thuật và của xu hướng chính trị - pháp lý đương đại. Đơn cử, sẽ có những lĩnh vực pháp luật chỉ điều chỉnh về nguyên tắc, khung khổ pháp lý, có lĩnh vực lại cần ở mức độ cụ thể cao hơn, công tác giải thích, hướng dẫn áp dụng pháp luật cũng sẽ phải thay đổi để phù hợp. Phương pháp loại trừ sẽ phải thay thế cho phương pháp điều chỉnh truyền thống là liệt kê những điều được phép v.v.. Không chỉ đối với pháp luật nội dung, mà còn đối với cả lĩnh vực pháp luật thủ tục, quy trình cũng chịu sự tác động mạnh mẽ của cách mạng CNTT, công nghệ số.
Mục đích của xây dựng và phát triển xã hội thông tin là đảm bảo và nâng cao chất lượng cuộc sống của con người, đảm bảo năng lực cạnh tranh của quốc gia, phát triển tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội, hoàn thiện hệ thống quản lý quốc gia trên cơ sở áp dụng những thành tựu tiến bộ về CNTT và truyền thông.
Vai trò, trách nhiệm của Nhà nước cần phải được nhìn nhận trong bối cảnh mới, trong đó có cả sự đầu tư thỏa đáng và chấp nhận có thể gánh chịu sự rủi ro về tài chính. Nhà nước phải có năng lực nhận biết, đánh giá đúng các diễn biến của cuộc cách mạng CNTT trên toàn cầu, xây dựng hệ thống chính sách, pháp luật, các tiêu chuẩn đảm bảo sự kết nối hợp tác, cạnh tranh, thúc đẩy áp dụng các công nghệ mới và bảo vệ quyền con người, quyền lợi của người tiêu dùng.
Nhà nước trong xã hội CNTT, kỷ nguyên kỹ thuật số cần phải có những năng lực mới bên cạnh những năng lực truyền thống, đặc biệt là năng lực thiết lập sự cân bằng giữa cạnh tranh và điều chỉnh trật tự, an toàn cho mọi hoạt động xã hội trong đó có hoạt động xây dựng, áp dụng, phát triển CNTT, truyền thông, kỹ thuật số.
Nhà nước phải có năng lực xây dựng, tổ chức thực hiện các chính sách, pháp luật để bảo vệ cuộc sống, tự do, sự phát triển và an toàn của con người khỏi các mối đe dọa trong thời hiện đại. Đồng thời trong xã hội CNTT, công nghệ số và cách mạng công nghiệp 4.0 đang phát triển như vũ bão, vai trò và trách nhiệm của Nhà nước ngày càng gia tăng để bảo vệ nền tảng đạo đức, các quyền và lợi ích của trẻ em và những nhóm người dễ bị tổn thương khác.
Xây dựng, phát triển Chính phủ điện tử
Để thực hiện được các chính sách quốc gia trong xã hội CNTT cần có các công cụ đảm bảo, trong đó, công cụ chính yếu là xây dựng Chính phủ điện tử. Cốt lõi của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 vẫn là CNTT. Do vậy, đối với nước ta, nhiệm vụ đặc biệt quan trọng, cấp bách là xây dựng, phát triển chính quyền điện tử ở trung ương và các địa phương.
Chính phủ điện tử là hình thức mới về tổ chức hoạt động của các cơ quan nhà nước được thực hiện bởi sự áp dụng rộng rãi CNTT và truyền thông nhằm đảm bảo sự thuận lợi cho các cá nhân, doanh nghiệp, các tổ chức xã hội trong các giao dịch pháp lý, thụ hưởng các loại hình dịch vụ công, giảm chi phí xã hội.
Mục đích và yêu cầu của xây dựng và phát triển Chính phủ điện tử là để nâng cao chất lượng và sự tiếp cận các dịch vụ nhà nước, áp dụng các tiêu chuẩn phục vụ người dân và các doanh nghiệp, nâng cao tính minh bạch, tính mở về thông tin hoạt động của các cơ quan nhà nước và đảm bảo điều kiện tham gia của người dân, các tổ chức xã hội vào quá trình xây dựng các chính sách, pháp luật, các quyết định hành chính của bộ máy công quyền. Đồng thời, Chính phủ điện tử còn có vai trò to lớn nhằm năng cao chất lượng, hoàn thiện hệ thống cung cấp và phân tích, đánh giá quyết định, đảm bảo sự kiểm soát các kết quả hoạt động của các cơ quan nhà nước.
Để thực hiện và vận hành thông suốt, hiệu quả Chính phủ điện tử có nhiều việc phải làm, trong đó có nhiệm vụ xây dựng hệ thống các văn bản pháp luật về Chính phủ điện tử, về áp dụng CNTT, xây dựng xã hội thông tin. Mục đích, yêu cầu của chính sách, pháp luật về Chính phủ điện tử là để đảm bảo cho mọi người dân, mọi tổ chức được sử dụng các CNTT, truyền thông, tiếp cận bình đẳng về các nguồn thông tin, được tự do và an toàn trong xã hội CNTT. Hai điều kiện nền tảng để thiết lập và vận hành Chính phủ điện tử là: hạ tầng CNTT và truyền thông; hệ thống các văn bản pháp luật, các thủ tục, các quy chuẩn, các cơ sở dữ liệu tích hợp đã được số hóa, các dịch vụ công trực tuyến và khả năng khai thác các dịch vụ trực tuyến (online) của người sử dụng (cán bộ, công chức, viên chức, người dân và doanh nghiệp)[4].
3. Dân chủ, mối quan hệ giữa Nhà nước và cá nhân trong xã hội công nghệ thông tin, truyền thông, công nghệ số, chính phủ điện tử, cách mạng công nghiệp 4.0
Xã hội CNTT, truyền thông, công nghệ số, Chính phủ điện tử đã và đang làm thay đổi sâu sắc kiểu/ mô hình quản lý, phục vụ của Nhà nước, sự tham gia vào đời sống chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá của con người. Đồng thời cũng đặt ra nhiều vấn đề mới đối với dân chủ về nội dung, phạm vi và các hình thức, thiết chế dân chủ, kể cả thiết chế, hình thức dân chủ đại diện đã được hình thành trong thế kỷ 20.
Dân chủ là một trong những điều kiện, đặc trưng, nguyên tắc cốt lõi của Nhà nước pháp quyền. Trong xã hội CNTT, công nghệ số, Chính phủ điện tử, cách mạng công nghiệp 4.0, dân chủ đã có thêm những điều kiện mở rộng cả chiều sâu và chiều rộng trong tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội, Nhà nước và pháp luật. Dân chủ sẽ được mở rộng với sự trợ giúp của CNTT, công nghệ số trên cơ sở các chính sách, pháp luật đáp ứng các yêu cầu của Nhà nước pháp quyền hiện đại.
Bản thân quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền, thực hiện dân chủ trong tất cả các lĩnh vực đời sống đã và đang làm thay đổi sâu sắc, cơ bản mối quan hệ giữa Nhà nước và cá nhân, xã hội, chuyển dần từ sự bất bình đẳng sang bình đẳng, công bằng, đồng trách nhiệm; từ cách thức điều hành, quản lý bằng mệnh lệnh hành chính áp đặt, đơn phương sang trách nhiệm phục vụ, đối thoại, thương lượng, thu hút sự tham gia, tham vấn, phản biện của người dân, doanh nghiệp và xã hội. Ngày nay, với sự áp dụng CNTT, công nghệ số lại làm gia tăng, sâu sắc, toàn diện hơn, thiết thực hơn quá trình dân chủ, minh bạch, công khai, sự thuận tiện, hiệu quả phục vụ, cung ứng các dịch vụ công của Nhà nước đối với người dân và doanh nghiệp.
Chính phủ điện tử, xã hội CNTT sẽ làm thay đổi mối quan hệ thông tin của người dân, doanh nghiệp và xã hội, sẽ làm mở rộng khả năng bảo vệ, bảo đảm quyền con người bằng con đường tiếp cận với nhiều loại hình thông tin, tăng khả năng con người được tham gia vào quá trình tiếp nhận các quyết định chính sách nhà nước và theo dõi các hoạt động của Nhà nước... tiếp cận thông tin, bảo vệ đời sống riêng tư. Việc áp dụng CNTT trong hoạt động của các cơ quan nhà nước làm cho mối quan hệ giữa Nhà nước và người dân, Nhà nước và doanh nghiệp ngày càng gần gũi, thân thiện hơn.
Áp dụng khoa học công nghệ vào hoạt động hành chính, dịch vụ công của các cơ quan nhà nước; tạo lập môi trường kinh doanh, sản xuất thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp. Bằng cách đó sẽ góp phần phải thay đổi nhận thức đối với đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức từ cơ chế hành chính "mệnh lệnh", "xin - cho" sang nền hành chính "phục vụ"; coi người dân và doanh nghiệp thực sự là khách hàng, là đối tác bình đẳng trong cung cấp dịch vụ công.
4. Thực hiện các nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền trong xã hội công nghệ thông tin, công nghệ số, cách mạng công nghiệp 4.0
Trong điều kiện mới vừa có nhiều cơ hội, thuận lợi, lợi ích to lớn vừa có nhiều thách thức, áp lực trong xã hội CNTT, công nghệ số, cách mạng công nghiệp 4.0 thì vấn đề quan trọng đặt ra là càng phải tăng cường việc bảo đảm thực hiện các nguyên tắc cơ bản của Nhà nước pháp quyền.
CNTT, công nghệ số, các tiến bộ vượt trội của công nghệ đem lại vai trò, tính hữu ích vô cùng to lớn, song chúng không là tất cả, không hoán vị, thay thế được con người. Con người vẫn là yếu tố then chốt, quyết định thành bại, phồn vinh, hạnh phúc về tinh thần và vật chất. Trong xã hội CNTT, công nghệ số, cách mạng công nghiệp 4.0 đòi hỏi cái căn bản nhất của con người, đó chính là phẩm chất đạo đức nhân văn và tri thức cùng ý thức trách nhiệm đối với cộng đồng, xã hội. Nếu thiếu những phẩm chất căn bản đó, con người có thể lợi dụng một cách tinh vi CNTT, công nghệ số, các loại hình công nghệ khác để xâm phạm quyền, lợi ích, đe dọa sự an toàn, hạnh phúc của con người, đồng loại.
Có nhiều nguyên tắc, yêu cầu của Nhà nước pháp quyền cần phải được thực hiện trong đời sống đầy biến động này. Cần nhận thức đầy đủ và đảm bảo việc thực hiện các nguyên tắc: thượng tôn Hiến pháp, pháp luật, mọi cá nhân, tổ chức đều bình đẳng trước pháp luật và trước tòa án. Công nghệ, kỹ thuật dù hiện đại đến mấy cũng không phải là tất cả, không thể hoàn toàn ủy thác, phó mặc, tin cậy vào công nghệ, kỹ thuật.
Trong xã hội CNTT, công nghệ số thì vấn đề đặc biệt cần quan tâm thực hiện là hoạt động thông qua các cơ chế hữu hiệu về kiểm soát: kiểm soát quyền lực nhà nước với những nội dung mới, phù hợp, kiểm soát tội phạm, kiểm soát xã hội, kiểm soát ứng dụng CNTT, công nghệ số, công nghệ sinh học, y học... Kiểm soát trong điều kiện xã hội CNTT, công nghệ số, cách mạng 4.0 cần được bổ sung thêm nhiều nội dung và quy mô, phạm vi áp dụng, hình thành nên một kiểu/ mô hình/ cơ chế kiểm soát vừa truyền thống vừa phi truyền thống. Cần phải mở rộng phạm vi và gia tăng hệ thống chề tài đảm bảo tính hữu hiệu của các cơ chế kiểm soát nhà nước và xã hội, công nghệ, kiểm soát quyền lực nhà nước theo chiều dọc, chiều ngang, chiều nội bộ trong các thiết chế nhà nước; kiểm soát pháp luật từ đầu vào đến đầu ra và đặc biệt là kiểm soát hiến pháp hiểu theo nghĩa đầy đủ nhất.
Vấn đề quan trọng bậc nhất nữa là vai trò, trách nhiệm, năng lực và kỹ năng của Nhà nước về bảo vệ quyền con người trong xã hội CNTT, cách mạng công nghiệp 4.0. Trong xã hội CNTT, cách mạng công nghiệp 4.0, vấn đề Tự do, Phát triển và An toàn của cá nhân, cộng đồng và xã hội ngày càng có tầm quan trọng đặc biệt và gia tăng sự phức tạp, thách thức đối với Nhà nước, pháp luật. Việc bảo vệ, bảo đảm các quyền, tự do, lợi ích của con người đã có thể nhiều tính mới, không có trong quan niệm và thực tiễn xã hội trước đây. Từ phương diện triết học pháp luật, ở đây hiện hữu một sự mâu thuẫn tất yếu giữa tự do, an toàn cá nhân và an toàn xã hội, thách thức trong việc giải quyết bài toán cân bằng lợi ích của cá nhân, cộng đồng, xã hội và Nhà nước.
Trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, ranh giới giữa vật lý, kỹ thuật số và sinh học đang mờ đi, vấn đề quyền con người cần được đặc biệt quan tâm bảo vệ, bảo đảm hơn bao giờ hết. Bảo vệ dữ liệu cá nhân trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 lại càng trở nên cấp thiết. Lợi dụng Internet và sự yếu kém của hệ thống pháp luật, của chế độ kiểm soát pháp lý và kỹ thuật, nhiều cá nhân, tổ chức sẽ có những hành vi xâm phạm quyền, lợi ích của con người, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, an ninh quốc gia. Thách thức này đặt ra đối với vai trò, trách nhiệm của Nhà nước và hệ thống pháp luật.
Các quy định pháp luật hiện hành về bảo vệ quyền riêng tư của cá nhân tuy đã có song vẫn mới chỉ kịp dừng lại ở quan niệm pháp lý truyền thống, chứ chưa đề cập đến yếu tố mới đó là chưa có sự phân biệt giữa môi trường trực tuyến và môi trường ngoại tuyến, môi trường ảo trên Internet trong không gian mạng. Khung pháp lý về bảo vệ thông tin người dùng trên mạng Internet, về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong môi trường Internet và kỹ thuật số hiện nay của nhiều nước trong đó có Việt Nam vẫn còn nhiều bất cập, lỗ hổng, cần phải khẩn trương hoàn thiện.
Nhiệm vụ bảo vệ, bảo đảm quyền con người của các nhóm xã hội dễ bị tổn thương ngày càng nặng nề, nhiều thách thức đối với Nhà nước và xã hội. Bởi vì trong điều kiện xã hội CNTT, công nghệ số, đời sống của họ sẽ chịu nhiều tác động cả thuận lợi và khó khăn. Nhiệm vụ của Nhà nước là cần thực hiện đồng bộ nhiều chính sách, giải pháp tạo việc làm, thu nhập thông qua đào tạo nghề và hỗ trợ tín dụng cho các nhóm đối tượng xã hội dễ bị tổn thương, cho thanh niên nông thôn, miền núi, nông dân, người khuyết tật, người dân tộc thiểu số và lao động nữ./.
GS, TS. Hoàng Thị Kim Quế - Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội
[4] Trương Hồ Hải, Chính phủ điện tử - cầu nối giữa Chính phủ với doanh nghiệp và công dân,